Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2014

Life

Đời người như con sóng.

Khi nhìn thấy con sóng sau tức là mình đã sắp tan vào bờ.

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2014

Tình trai của các samurai - truyện thứ hai


TÌNH YÊU BI KỊCH GIỮA HAI KẺ THÙ

Lãnh chúa vùng Etjigo có hiệu là Jihudayu Mashikura. Một bữa kia tổng quản của ngài là Gyobu Tokuzawa gọi cận vệ thứ nhất của ngài, Senpatji Akanashi, lúc đó đang đứng với các cận vệ khác trong hành lang, sang một bên và nói nhỏ, "Tôi có chuyện phải nói với anh, Akanashi. Hãy đi theo tôi". Và, lôi cậu ta tới một chỗ kín đáo sau gốc cây trong vườn, ông ta nói, "Chủ nhân lệnh cho tôi chọn ra một ai đó dũng mãnh để giết triều thần Shingokei Dizaki, và tôi không nghĩ ra ai khá hơn cậu cho sứ mệnh này. Hãy tới nhà Shingokei và giết anh ta. Tôi tin chắc là chủ nhân có lý do chính đáng để tiêu trừ anh ấy". 

Senpatji hỏi, "Shingokei phải trả giá cho tội gì vậy?" Nhưng chính tổng quản cũng không thể biết. Rồi Senpatji nói với ông ta, "Tôi tin lời ông, nhưng tôi muốn nghe mệnh lệnh này từ chính miệng chủ nhân". Thế là tổng quản đưa Senpatji đến gặp Lãnh Chúa, và ông ta nói thế này với người đang quỳ trước mặt mình, "Senpatji, anh phải đi giết Shingokei, đúng như lời tổng quản nói".

Senpatji về nhà buồn bã vì phải giết Shingokei, vốn ở trong số những người bạn tốt của mình. Dù vậy anh vẫn tới nhà bạn, và sau một vài lời trao đổi, giết chết anh ta rồi nói, "Đây là lệnh của chủ nhân". Đám tay chân của Shingokei muốn vây bắt kẻ sát nhân, nhưng Senpatji trấn an họ, nói, "Tôi chỉ hành động theo lệnh của lãnh chúa. Và các anh cũng nên tuân thủ".

Lãnh chúa tịch thu tài sản của Shingokei. Goá phụ của anh ta tan nát. Chị ta là con gái của một samurai đã gác kiếm ở tỉnh bên, và mới năm trước thôi đã kết hôn với Shingokei trong nghi lễ đủ đầy, vì Shingokei và cha chị vốn là đồng môn. Họ đã yêu nhau đằm thắm, giờ cái chết của chồng làm chị điêu đứng. Chị muốn chết theo cho rồi nhưng còn đang mang thai, làm sao tự sát khi có đứa con trong bụng. Thế nên chị bỏ xứ mà đi, khóc than chua chát cho hai chữ thân phận. Sau một hành trình đơn độc và gian khó, chị đến một vùng xa xôi trên núi và sống tại đó. Ít lâu sau chị sinh con trai, trong cảnh cô quạnh và không ai đỡ đần. Chị chăm sóc đứa con hết mực, ngày ngày đan len để mưu sinh; vì trong khắp cả làng không có lấy một người phụ nữ nào biết đan áo. Hai mẹ con họ cứ sống như thế trong cảnh thanh bần.

Thời gian thắm thoát trôi, cậu con trai mới đó mà đã mười bốn tuổi. Dung mạo và cung cách của cậu bé thật tao nhã; nó làm người mẹ chạnh nhớ đến người chồng quá cố của mình. Chị ta vẫn còn giữ một cây đàn tranh và hai thanh gươm báu được rèn bởi một nghệ nhân xuất sắc từ thời xa xưa, có tên là Kunimune, vốn là vật gia bảo cha mẹ chị tặng cho khi chị về nhà chồng. Mỗi khi buồn chị vẫn lấy đàn ra tấu vài khúc bi ai cho mình và con trai nghe. Và cứ như vậy họ sống cùng nhau trong túp lều lý tưởng.

Khen cho con tạo xoay vần vì đời người luôn có những khúc quanh bí ẩn. Senpatji Akanashi lúc này đã bị chủ nhân đuổi đi chỉ vì một lỗi lầm vặt vãnh; và, sau một hồi bôn ba qua các vùng miền, đã định cư ở một thị trấn không xa túp lều mà hai mẹ con sinh sống. Họ chưa từng giáp mặt nhau và cũng không có ý niệm gì về sự gần gũi giữa họ với nhau. Nhưng một hôm Senpatji được một người bạn là Kurobatji Toriyama mời đi săn chim. Lúc về họ tình cờ ngang qua túp lều của goá phụ và nghe tiếng đàn tranh vọng ra. Họ mê mẩn dừng lại lắng nghe. Chui qua một lỗ dậu, họ nhìn trộm qua một khe hở trên vách phên tre. Một thiếu phụ chừng ba mươi tuổi đang chơi đàn tranh. Chị ta chừng như thuộc về một dòng tộc danh giá nào đó, chỉ vì muốn ẩn thân mà lui về một chỗ rách nát như vầy. Ngồi cạnh chị là cậu con trai Shynosuke, đang nghiền ngẫm những ý lời trong cuốn sách do chính mẹ cậu viết. Cậu bé trông thật khôi ngô. Những vị khách tò mò ngạc nhiên khi thấy có những mỹ nhân như vậy ở nơi chốn heo hút này. Họ đẩy cửa bật ra và đứng yên vài phút ngay ngưỡng cửa như để xin lỗi về sự đường đột của mình. Sau khi chào hỏi vắn tắt họ bỏ về.

Senpatji si mê vẻ đẹp của cậu trai trẻ. Anh ta quay lại túp lều và kết thân với hai con người ở đó. Dần già giữa Senpatji và Shynosuke hình thành một tình cảm sâu đậm cho nhau, và Senpatji đưa cả hai mẹ con về thị trấn và chu cấp cho họ. Cứ như thế một năm dần qua trong yên ả.
Rồi người mẹ nhận thấy Senpatji rất giống cái người đã giết chồng mình. Một hôm chị thăm dò gia cảnh và quá khứ của anh ta; và chị tin chắc đây không ai khác mà chính là người đã ám sát chồng chị, cũng là cha thằng bé. Ngay hôm sau chị nói với con trai, "Senpatji đã giết cha con trước khi con chào đời. Ông ấy đã làm theo lệnh của chủ nhân, vốn cũng là lãnh chúa của cha con nữa. Nhưng dù gì ônng ấy vẫn là kẻ đã hạ sát cha con. Vậy con phải giết ông ta, để trả thù cho cha".
Cậu con trai lúc đầu ngây người vì kinh ngạc. Rồi cậu phân trần với mẹ, "Senpatji không giết cha con vì có tư thù. Ông ấy không thù ghét gì cha con hết. Ông ấy không có lựa chọn nào khác, vì lãnh chúa đã lệnh. Senpatji không phải kẻ thù của cha con. Nếu mẹ muốn phục thù cho cha, thì kẻ đó phải là lãnh chúa Jibudaya. Đó mới là người mà con phải giết, chứ không phải bạn con Senpatji. Mẹ con mình nợ ông ấy nhiều mà. Mẹ hãy nghĩ đi: con không giết ông ấy được, chúng ta không có quyền làm điều đó".
Nhưng mẹ cậu nổi giận và oà khóc, "Ta biết là mi sẽ không giết hắn mà, mi quá yếu đuối và nhu nhược. Nếu ta biết hắn là kẻ đã giết chồng mình thì ta đâu có nhận sự giúp đỡ của hắn. Ta chẳng thà chết đói còn hơn nhìn thấy mi làm thân với hắn. Nhưng ta nói cho mi biết, mi sai rồi khi xem trọng luyến ái hơn chuyện báo thù, mi đang làm hoen ố thanh danh của một samurai. Nếu mi cứ yếu hèn như thế coi như ta không còn là mẹ mi nữa. Ta sẽ tự mình đi báo thù vậy".
Và, chụp lấy con dao găm, chị ta lao về phía cửa. Nhưng cậu con trai níu áo chị lại và nói, "Nếu mẹ cứ khăng khăng muốn báo thù cha như vậy, thì con biết làm sao bây giờ phải nghe lời mẹ thôi. Con sẽ tự tay giết ông ấy vậy. Con xin mẹ  đừng lam việc đó. Xin mẹ hãy cứ bình tâm". Và cậu lên kế hoạch sẵn sàng. 
Mối tình của cậu với Senpatji cũng đã già hơn hai năm, vậy mà giờ đây cậu phải huỷ diệt người đàn ông mà mình đã thề nguyền yêu thương, trói buột vĩnh viễn. Nhưng cậu không thể giết ông ta mà không cho biết lý do. Thế nên tối hôm đó cậu cho gọi Senpatji vào phòng, nhưng sắc mặt cậu ta cứ tái xanh và sầu luỵ. Senpatji cảm được ngay, liền hỏi, "Shynosuke yêu dấu, trông cậu thật buồn bã tối nay. Cậu có sao không? Hãy nói ra đi vì tôi có thể chia sẻ".
Shynosuke thở dài, cảm động vì những lời lẽ dịu dàng ấy; trong khi Senpatji lại giục cậu hãy tỏ bày. Rồi Shynosuke thành thực nói, "Ồ, kiếp người mới khốn nạn sao! Tôi chính là con trai của Shingokei. Ông hẳn cũng còn nhớ đã làm gì cha tôi. Tôi có biết ông không có lựa chọn nào khác, rằng ông chỉ tuân lệnh chủ nhân. Nhưng bổn phận làm con của một samurai khiến tôi không thể bỏ qua. Lúc đó tôi vẫn còn là một hài nhi trong bụng mẹ. Thực lòng tôi rất tiếc phải giết ông, vì ông đã đối xử tốt với mẹ và tôi. Thật là khó xử quá vậy".
Senpatji thở dài, "Chúa ơi, chuyện này mới ly kỳ làm sao. Ta đâu có ngờ cậu chính là con trai của anh ấy. Đúng, ta đã giết cha cậu. Nhưng ta hạnh phúc được chết dưới tay cậu, Shynosuke. Tới đây, hãy giết ta và trả thù cho cha". Và anh ta quăng kiếm của mình sang một bên, chìa cổ ra chi cậu bé.
Shynosuke hét, "Không, hãy cầm kiếm lên và đấu với tôi. Tôi không thể giết ông với trong tay không tấc sắt, ông đã tử tế với mẹ con tôi nhiều". Mẹ cậu nãy giờ vẫn lén xem ở phòng bên, lúc này bèn gọi con trai vào nói, "Ta thán phục cả hai người, con và Senpatji. Cả hai đều trọng danh dự. Hãy yêu nhau một lần cuối đêm nay. Ta muốn cho con sự trì hoãn ấy. Hãy tiễn biệt nhau trong nghi thức của tình yêu, nhưng vào ngày mai, Shynosuke, nhất quyết con phải trả thù cho cha đó".
Rồi Shynosuke mang ra nào đồ ăn nào thức uống, và lứa đôi lại trùng phùng. Người mẹ ngủ ở phòng bên, trong khi Senpatji và Shynosuke nằm kề nhau.
Khi người mẹ tỉnh dậy lúc sáng, hai người kia vẫn nằm đó trong yên lặng. Chị lay gọi con trai, "Dậy đi nào, cu lười". Nhưng không có một tiếng trả lời. Chị đi vô phòng và lật tấm chăn trên người họ, và nhìn thấy Shynosuke đã đâm thủng tim Senpatji - bằng thanh kiếm trước đó đã xuyên qua chính ngực mình.
Người mẹ đứng như trời trồng trước thi thể của hai nhân tình, và ngay đó, trong vực đáy tuyệt vọng, cũng đã tự kết liễu đời mình. Thật là một câu chuyện bi đát quá vậy.
































Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2014

Tình trai của các Samurai - truyện thứ nhất


THỀ YÊU NHAU CHO ĐẾN CHẾT
Saikaku Ihara


SHOGUN YOSHIMASA, từng có lúc cai trị cả nước Nhật, ngoài một đam mê nói chung cho tất cả các nghệ thuật và thú chơi tao nhã, còn có một tình yêu đặc biệt dành cho hương trầm. Ngài có một bộ sưu tập đủ các loại trầm lấy từ mỗi vùng miền ở Nhật, và khứu giác của ngài tinh tế đến mức có thể nhận biết sự khác biệt tế nhị nhất giữa các mùi hương.

Một buổi tối mùa thu giá rét, ngài đang trò chuyện cùng bạn hữu về cái thú chơi hương của mình. Màn đêm dần buông và một làn hơi chợt bay vào phòng mang theo một mùi hương dịu nhẹ và quyến rũ. Cả shogun lẫn các bạn ngài đều chưa từng biết một thứ hương thơm nào đằm thắm đến vậy. Ngài lệnh cho một người hầu tìm quanh lâu đài xem nó từ đâu ra, nhưng họ không tìm thấy đâu cả. Rồi ngài lệnh cho thân tín của mình Toshikiyo Tambano-kami phải tìm cho ra người ta đốt hương ở chỗ nào, và cậu ta lập tức lên đường cùng hai người hầu nữa.



Mùi hương yếu ớt, nhưng khi họ băng qua đồng cỏ tới bờ bên này sông Kamo, nó đậm hẳn lên. Nó từ bờ kia bay qua, cho nên Toshikiyo lựa chỗ cạn mà sang sông. Hôm đó là mồng sáu tháng mười một, và trời tối đen vì không có trăng. Họ dò đường qua sông nhờ ánh sao tím tái rót từ trời. Tới bờ bên kia họ thấy một người ngồi trên phiến đá, mặc áo ngoài bện từ rơm và đầu đội nón lát rộng vành. Tay ông ta giữ một lò hương trong vạt áo. Trông ông thanh thản và an nhiên.

Toshikiyo hỏi ông, "Này khách lạ, sao ông lại ở một mình ở một nơi như vầy giữa đêm hôm khuya khoắt?" Và ngay đó cậu ta ngửi thấy mùi hương mà mình đi tìm, dậy lên từ lò hương của khách lạ. Người nọ đáp, "Tôi đang theo dõi đường bay của lũ chim chidori đang hót trên sông Kamo". Toshikiyo rất ấn tượng với câu trả lời. Có thể nghe được tiếng chim chidori trên sông nước giữa một đêm rét mướt và tối thui như vầy, hẳn không phải hạng tầm thường mà phải qua tu tập kỹ lưỡng. Cậu ta đổi sang giọng lễ độ hơn, "Không phải tôi quấy rầy ngài, nhưng chủ tôi có lệnh, chủ tôi là shogun Yoshimasa, đã lệnh cho tôi phải tìm ra người nào đã đốt lên một mùi hương dịu ngọt đến như vậy. Ngài là ai, thưa viễn khách?"

Người nọ đáp, "Tôi không phải người tu đã từ bỏ lục trần vì tình yêu với ông Phật. Nhưng tôi cũng không phải người thường. Hãy cứ xem tôi như một kẻ lang thang, chưa tìm ra chỗ nào để đặt lưng mà ngủ. Tôi đã sáu mươi sáu tuổi rồi, nhưng hai chân còn rắn rỏi và tôi còn đi lại như ý. Đoạn ông ta đứng lên và đi về phía rừng thông nằm sát mép nước.

Đó là một câu trả lời rõ ràng nhưng cũng đầy bí ẩn. Toshikiyo còn ngạc nhiên hơn trước. Cậu ta níu vị khách lại, nài nỉ, "Xin ngài cho tôi biết tên của loại trầm mà ngài đang đốt. Chủ tôi là Yoshimasa hẳn muốn biết điều đó".

Người nọ đáp, "Các anh bỏ công vậy chỉ để biết một điều vụn vặt thế sao? Nếu chủ anh yêu quí hương trầm đến thế, hãy mang cái này về, cho dù chẳng còn bao nhiêu trong đó". Và, trao cho cậu ta cả lò hương lẫn vụn trầm, ông ta nhanh nhẹn bước đi.

Toshikiyo mang trầm cùng lò hương về cho Yoshimasa và kể tường tận về ông già kỳ dị. Vị shogun rất tò mò về sự cao quý của vị khách và cho người lùng tìm ông ta ở khắp Kyoto, nhưng không ra tung tích. Shogun khá phiền lòng về điều này và ông càng lưu giữ món bảo vật cẩn mật hơn. Ngài đặt tên thứ trầm hương này là Chidori. Rồi chẳng mấy chốc mà câu chuyện về dị nhân lan rộng trong đám tôi tớ của ngài.

Một trong số trai chọn của Yoshimasa, con trai của một samurai ở đất
Đông, có gương mặt khôi ngô đến mức hoa cỏ vùng Kyoto cũng hờn ghen khi đứng cạnh chàng. Cậu ta nằm trong số các trai trẻ được shogun ưu ái. Khi nhìn thấy lò hương mặt cậu ta liền biến sắc, lộ vẻ đau khổ. Tên cậu là Gorokitji Sakurai. Người bạn rất thân thấy vậy liền hỏi làm sao mà hình ảnh lò hương làm cậu ta động tâm đến như vậy. Nhưng Gorokitji không muốn mở lòng. Mà người bạn thân này cũng đồng thời là người tình của cậu. 

Rồi cơn đau buồn khiến Gorokitji lâm bệnh, và sau cùng trên giường bệnh cậu thú nhận với bạn mình; cậu này có tên là Muranosuke Higutji. Giọng yếu ớt và run run, Gorokitji kể lại dĩ vãng cuộc đời và mối dây liên hệ với chiếc lò hương.

"Chủ nhân của lò hương này là người tôi yêu. Chúng tôi đến với nhau trong tình yêu không gì có thể thay đổi. Nhưng ông ấy nghĩ mối tình này có thể làm hại sự nghiệp của tôi, vì vậy ông đã bỏ tôi ở lại miền Đông và dạt về Kyoto. Nhưng tôi không quên được ông. Tôi đến đây hầu việc ông chủ Yoshimasa cũng là để theo vết người tôi yêu, hy vọng một ngày nào đó ơn trên sẽ cho tôi gặp lại ông. Nhưng vận may đã không chiều theo tôi. Tôi chỉ gặp được cái lò hương, nhưng không được gặp chủ nhân của nó, không thể gặp lại người tôi yêu". Và Gorokitji khóc nhiều nước mắt chua xót.

Muranosuke buồn ghê gớm. Cậu ta sợ mất bạn tình nếu chẳng may Gorokitji chết đi. Vậy mà Gorokitji cứ đuối dần, đuối dần, cho tới lúc không còn hy vọng sống sót nữa. Rồi cậu ta gọi Muranosuke lại bên giường và nói, "Muranoksuke yêu dấu, sau khi tôi chết đi cậu hãy đi tìm ông cụ và yêu thương ông ấy thay tôi. Vì cậu là bạn thân nhất của tôi nên tôi mới yêu cầu một ơn huệ thiếu tế nhị và khó thực thi đến như vậy. Tôi xin cậu hãy thực hiện điều ước sau cùng của tôi, vì tình thương đối với linh hồn tôi mà chốc nữa thôi sẽ rời bỏ cậu. Nếu cậu từ chối không làm, vong linh của tôi sẽ không thể lên thiên đàng".

Lời cầu xin này thật vô lý, nhưng Gorokitji và Muranosuke là bạn tình bạn đời, họ có bổn phận hy sinh cho nhau ngay cả tính mạng. Vì vậy Muranosuke liền hứa, và Gorokitji ngay đó chết với nụ cười trên môi. Bạn bè ai cũng thương khóc cho cậu ta, một số người không kìm được tiếng nấc khi nhìn xuống gương mặt diễm lệ vô hồn của cậu. Thân thể Gorokitji được hoả thiêu trên ngọn đồi Toribe, và chỉ còn nắm xương làm chứng nhân cho sự hiện hữu của cậu ta trên cõi đời này.

Sau một cuộc kiếm tìm tốn nhiều nhiệt huyết và thời gian, Muranoksuke cũng tìm ra ông già kia, sống trong một túp lều dột nát với hai cánh cửa sập sệ. Một bờ dậu trường sanh thâm thấp bao bọc quanh lều. Trong một đêm trời mưa Muranoksuke đến thăm ông ta. 

Đó là một ngày mệt nhọc và hiu quạnh, và ông già đã nghĩ nhiều về Gorokitji, vì tình yêu ông dành cho cậu bé quá sâu đậm khó mà quên đi. Muranosuke nói cho ông ta biết về cái chết của bạn cậu, và ông già tuyệt vọng hẳn đi. Ông ta cứ thút thít, "Ước gì cái tin này là một ngàn lần hư dối". Khi ông ta trấn tĩnh hơn, Muranosuke nhìn vào mắt ông và nói ra lời hứa của mình với người bạn lúc hấp hối. Gương mặt ông già nhăn nheo méo mó. Dù gì ông ta cũng đã ngoài sáu mươi tuổi. Yêu một người như thế thật là điều khó khăn cho Muranosuke. Nhưng cậu ta đã thề ngay giường bệnh của Gorokitji rằng sẽ yêu con người này thay cậu ấy, và cậu ta bị ràng buộc bởi danh dự của một samurai phải hoàn thành lời hứa của mình. Thế nên cậu nói với ông già:

"Này dị nhân, khi bạn tôi Gorokitji hấp hối, cậu ta đã cầu xin tôi tìm đến ông và yêu ông thay cậu ấy. Vậy ông hãy yêu tôi cứ như là yêu Gorokitji. Nào, chúng ta hãy trở thành tình nhân của nhau".

Ông già quá đỗi ngạc nhiên trước đề nghị bất ngờ này. Ông ngẩng gương mặt còn đẫm nước mắt lên và trả lời, "Đề nghị của cậu thật ngoài mong đợi. Ta tôn thờ Gorokitji tội nghiệp và không thể chấp nhận tình yêu của cậu. Lại nữa ta đã quá già để làm tình nhân của cậu. Ta cảm động vì sự chung tình của cậu với Gorokitji, nhưng xin lỗi ta không thể chấp nhận được". Ông ta cứ từ chối hoài như thế, cho tới khi Muranosuke tuyệt vọng thốt lên, "Tôi phải hoàn thành lời hứa với bạn tôi. Nếu ông từ chối ước nguyện sau cùng của cậu ta, tôi chỉ còn một cách để giữ gìn danh dự của một samurai: tôi phải dùng đến Hara-kiri. Vì tôi đâu phải hạng thấp kém đến độ có thể sống yên trong sự thất hứa".

Thế là ông già phải miễn cưỡng chấp nhận tình yêu của Muranosuke. Ông ta cảm động bởi sự trung thành của cậu ta, và cũng không thể từ chối hoàn thành ước nguyện sau cùng của Gorojitki yêu dấu. Và thế là họ thề nguyền một tình yêu và tình bạn trọn đời có nhau, và Muranosuke cứ mỗi tối lại đến thăm ông già. 

Khi người xung quanh biết chuyện, ai cũng khen đức hạnh của Muranosuke và tình cảm sắt son cậu dành cho ông già. Cậu ta không yêu ông ấy, nhưng vẫn làm tình nhân của ông chỉ để hoàn thành lời hứa với Gorokitji.

Thứ Ba, 16 tháng 9, 2014

Quẻ 07 :|:::: Địa Thủy Sư (師 shī)




Đây là quẻ nói về một đạo quân. Nước trong lòng đất. Khi con người ta nhìn thấy những phân thân của mình là bất tận.

Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2014

10. 天 澤 履 THIÊN TRẠCH LÝ

10. 天 澤 履 THIÊN TRẠCH LÝ Quẻ Thiên Trạch Lý đồ hình ||:||| còn gọi là quẻ Lý (履 lủ), là quẻ thứ 10 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☱ (||: 兌 dũi) Đoài hay Đầm (澤) và Ngoại quái là ☰ (||| 乾 qiàn) Càn hay Trời (天). Quẻ này chỉ có một hào âm nhưng các hiền triết lại không cho làm chủ quẻ. Tại sao nhỉ? Lại còn cho là dẫm lên đuôi cọp và bị cọp cắn. Nhưng cọp cắn thì đã sao. Nếu 6 hào trong quẻ dịch tương ứng với 6 căn thì hào số 3 ứng với cái mũi. Cái mũi dùng để đánh hơi, cái mũi ngưởi được cơ hội và cả nguy hiểm. Cái mũi là bản năng sinh tồn, là con rắn. Nhưng bởi vì khinh cái mũi nên người ta không vượt qua được nó, làm nô lệ cho nó.

Thứ Ba, 26 tháng 8, 2014

Quẻ Trạch Địa Tuỵ

45. 澤 地   TRẠCH ĐỊA TỤY  

Tuỵ nghĩa là nhóm họp. Như giữa mảnh đất (nội quái Địa) có một cái hồ (ngoại quái Trạch) khiến cho tất cả nước chảy xuống đó.

Hai hào dương ở 4 và 5 làm chủ quẻ, giống như vua hiền tướng giỏi tập hợp muôn dân.


Hố Suối Trầu, Ninh Hoà





Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2014

Địa thiên thái

Quẻ dịch của ngày hôm nay là Điạ Thiên Thái


11. 地 天 泰 ĐỊA THIÊN THÁI  

Thái là thái bình. 

Sở dĩ như vậy là do sự cân bằng giữa âm và dương. Ba dương gánh vác ba âm.

Quẻ dịch được chia làm hai phần ba hào dưới là Nội Quái, ba hào trên là Ngoại Quái.

Ngược lại với quẻ này là Thiên Địa Bĩ


12. 天 地 否 THIÊN ĐỊA BĨ  



Bĩ là bĩ cực, trời đất bất tương giao. Là vì kinh dịch trọng Dương và thờ Trời, nhưng cũng có thể đúng. Khi con người ta ngoài mặt quân tử mà trong lòng tiểu nhân thì thật khó sống vậy.

Người Ai Cập cũng có quan niệm về Trời Đất. 











Thứ Ba, 19 tháng 8, 2014

Đất mới


Chấp nhận

Now, craving is dependent on feeling, seeking is dependent on craving, acquisition is dependent on seeking, ascertainment is dependent on acquisition, desire and passion is dependent on ascertainment, attachment is dependent on desire and passion, possessiveness is dependent on attachment, stinginess is dependent on possessiveness, defensiveness is dependent on stinginess, and because of defensiveness, dependent on defensiveness, various evil, unskillful phenomena come into play: the taking up of sticks and knives; conflicts, quarrels, and disputes; accusations, divisive speech, and lies.

Maha-nidana sutta

Và rồi thì, do cảm thọ có tham ái, do tham ái có tìm cầu, do tìm cầu có tích cóp, do tích cóp có chủ quyền, do chủ quyền có mê đắm, do mê đắm có dính mắc, do dính mắc có tư hữu, do tư hữu có keo kiệt, do keo kiệt có phòng thủ, và do có phòng thủ, từ sự tự vệ mà các ác pháp khác nhau cùng phát sanh: dùng đến dao gậy; xung đột, tranh cãi, bất đồng; vu cáo, chia rẽ và gian trá.


Kinh Đại Duyên

Nói ngắn gọn hơn, ở nơi có ham hố, mình đừng trông mong vào ba điều:

1. Sự chân tình
2. Sự cao thượng
3. Sự rộng rãi

Nơi nào không có ham hố? Nơi nào nhỉ.



Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2014

Con mèo nằm trên bàn thờ

Truyện đã đăng trên báo Đại Biểu Nhân Dân Tết, trong khi bản tiếng Anh The Cat That Slept on The Altar đã xuất bản trong tuyển tập WTF!? của NXB Narcissuss Pink Press, Hoa Kỳ.

Đó là một con mèo nhị thể đen trắng. Cũng chỉ là một con mèo nữa, mẹ nuôi để đuổi chuột. Ba tháng tuổi, nó đang tuổi ăn tuổi lớn. Cái bàn thờ đóng bằng thứ gỗ xưa hiếm, với nhiều chạm khắc tinh vi. Nào chim nào hoa lá, như tôi nhớ là vậy. So với nhiều gia đình khác thì bàn thờ nhà tôi khá là khiêm tốn. Hai cây đèn bằng đồng án ngữ phía trước, cân xứng hai bên cái lư hương. Phía bên trái là đĩa hoa quả, ngày thường đơm một trái bưởi to lắm. Mẹ nói đơm bưởi cho nó lâu. Ngày rằm mới có thêm xoài hay chuối. Và dĩ nhiên, ngày Tết là một trái dưa hấu xanh thẫm, bóng lưỡng như có thể soi gương vậy. Phía bên phải là bình hoa, cũng thay đổi theo thời như đĩa trái cây. Tôi thấy hoa huệ trắng là thường nhất, nhưng cũng có khi vài bông sen, ửng hồng như làn môi thiếu nữ. Phía trong cùng, sát vách tường, là những tấm hình ông bà: nội ngoại, cao cố. Có những vị mất từ hồi xưa xửa xừa xưa, chẳng có bức ảnh nào để lại, chỉ còn những cái tên viết lên một khung giấy. Bên dưới tên mỗi người là ngày mất của họ, để mẹ còn biết đường làm cơm cúng. Tôi là người quét dọn và thắp nhang ngày ngày, thành ra tôi biết được điều bí mật của con mèo nhị thể. Nó rất ưa ngủ trên bàn thờ. Dĩ nhiên tôi cũng biết một vài cư dân khác nữa. Một con tò vò làm cái tổ bùn rất xinh dưới bàn thờ, chỗ chân và mặt bàn nối nhau. Hai con thằn lằn hay đuổi nhau trên trần nhà. Một con nhện giăng lưới trong góc nhà, quét hoài mà cứ giăng hoài. Hai con chim sẻ thủ thỉ thù thì dưới mái ngói. Nhưng con mèo là khác người hơn cả. Hồi giờ tôi chỉ thấy mèo ưa ngủ trên giường hay nằm phơi nắng trên mái nhà mà thôi.
Minh họa của Đặng Hồng Quân
Trong các bức ảnh thờ, ảnh bà nội là to hơn cả. Rồi tới ảnh bà cố. Ông nội và ông cố cũng có ảnh, nhưng mà chúng bé tèo tẹo, phải để ý mới nhận ra. Bố là người sắp xếp những chuyện này, thành ra chỉ có bố mới biết tại làm sao. Trong số các ông bà, tôi chỉ biết có bà nội, những người khác đều đã mất trước khi tôi chào đời. Ông nội chết trẻ, vì một bịnh gì đó. Ông cố sống lâu hơn, nhưng hồi chiến tranh bị địch càn, ông chết rất thảm. Dĩ nhiên, tôi nghe kể nhiều chuyện về tổ tiên mình.
Ông nội như lời kể là người bắt cá rất giỏi. Ông thường lội xuống con sông đầu làng và bắt cá bằng tay không. Chẳng có lưới hay cần câu gì cả, chỉ có hai bàn tay không mò mẫm theo những hang hốc dọc theo bờ sông. Ông cũng ưa trồng khổ qua trong vườn nữa. Ông vốn khó tính, những trái khổ qua lủng lẳng ông cứ muốn chúng treo thật thẳng hàng. Trái nào lệch qua một bên là ông cắt bỏ. Tôi còn nghe kể những chuyện khác nữa, nhưng mà không hay về ông. Thôi tôi sẽ không kể lại đâu. Nếu lỡ có gì sai, thì tôi mang tội với người đã mất.
Ông cố chết rất bi. Hồi đó chiến tranh lên đến đỉnh điểm. Dân làng bị lùa lên thị trấn, vì chính quyền muốn cắt nguồn tiếp tế. Nhưng mà ông cố chẳng có gì để làm giữa chốn thành đô xí xô xí xào. Ông lẳng lặng bỏ về làng, ra đồng làm việc. Kể lại là ông bị bắn chết từ trên trực thăng. Ông bị tưởng nhầm là quân kháng chiến. Ông chết giữa mùi rơm ngai ngái, mùi bùn tanh tanh. Tôi tự hỏi phải chăng ông biết trước kết cục của mình. Nhưng ông chẳng thà chết thảm trên mảnh đất mà mình đã lớn lên còn hơn sống mòn giữa những bê tông cốt sắt và hàng rào kẽm gai xa lạ.
Trước khi có con mèo nằm trên bàn thờ, mẹ cũng từng nuôi những con mèo khác người. Mấy năm trước, có một con mèo giống y như chó. Nó rất ưa ôm chân người ta. Khi mình ăn, nó ngồi chốc mõ nhìn lên, như thể đang chờ một mẩu xương. Ngay cả tiếng meo của nó cũng gằn gằn như tiếng chó sủa. Dĩ nhiên khi lớn lên nó cũng ưa rượt đuổi những con mèo, nhứt là mèo cái. Rồi lại có một con mèo xiêm ưa ngủ trong tủ kính bày hàng. Dĩ nhiên nó là con mèo đẹp nhứt thị trấn. Chắc nó cũng biết mình đẹp. Nhưng nó không thể so bì với con mèo hiện tại, về mức độ huyền bí.
Bà cố biết rất nhiều chuyện đời xưa. Tôi ghen tỵ với bố vì những chuyện bà kể đều hay, cho dù phải qua một dị bản là bố. Câu chuyện ám ảnh tôi nhiều nhứt kể về một đứa cháu sống với một bà cô, hai người bị một nạn đói kéo dài tới mức chỉ còn một hạt đỗ để sống. Bà cô cho hạt đỗ vào trong ấm nước, đun tới đun lui, uống nước cầm hơi sống qua ngày. Một hôm khi người cô đi vắng, đứa cháu không cầm lòng được vớt hạt đỗ ra ăn. Không còn mùi đỗ để hít ngửi, bà cô lịm chết. Đứa cháu sau đó được cứu sống. Nhưng nó cứ mãi ăn năn việc mình làm. Rồi nó cũng chết và biến thành một con chim. Người ta thường thấy nó trên những cánh đồng trồng đỗ. Nó sẽ hót như vầy, “Mùa lúa trỗ đỗ chín, hi-i-i-i-i-ít cô”. Những người nông dân bèn gọi nó là con chim hít cô.
Tôi biết nhiều hơn về bà nội vì bà sống cho tới năm tôi mười lăm. Bà nội là người tần tảo siêng năng, bà bán hạt giống cho nhà nông và tự mình trông coi hai thửa ruộng. Bà thức dậy còn sớm hơn con gà trống tía sau chuồng, lọ mọ chuẩn bị cho gánh hàng đi chợ. Ở quê nội chợ làng chỉ thành chợ phiên một buổi trong tuần, thành ra muốn họp phiên mỗi ngày thì phải ráng đi chợ xa, qua nhiều làng xã. Khi về quê nội nghỉ hè tôi vẫn thường đi chợ với bà, đi bằng xe ngựa, trên con đường làng uốn lượn theo bờ sông. Cũng có lúc hai bà cháu đi bộ. Cái vui của sự đi bộ là mình có thể băng tắt qua những cánh đồng. Nói cho ngay, đi xe ngựa đồng xóc miết cũng chán lắm.
Gian thờ trong nhà nội thì bề thế hơn nhiều. Có một bàn thờ chính và ba trang ở bên trên. Trong gian nhà thờ lúc nào cũng tối om om. Lúc nào cũng có khói nhang, và hai lần trong ngày, lúc sáng sớm và trước khi đi ngủ, tiếng mõ boong boong huyền hoặc. Bà nội không nuôi mèo mà nuôi vài con chó. Tôi không nhớ nhiều về chúng vì chúng không có chi đặc biệt. Với lại, đã có những con vật khác để chơi đùa. Tôi thường bắt cua ngoài đồng về chơi. Tôi móc đất sét nặn một cái xe hơi rồi cột bốn con cua vào làm bánh, nhưng bạn biết lũ cua chúng bò ra sao rồi đó. Xe hơi của tôi chẳng bao giờ nổ máy được cả. Một trò khác tôi học được từ thằng em họ là đá nhền nhện. Thứ nhện chịu đá nhau không phải là nhện giăng tơ, mà là những con bò loanh quanh vồ mồi. Chúng tôi bắt chúng trong um tùm lá dọc hàng rào.
Lần đầu tiên tôi thấy con mèo nhị thể ngủ trên bàn thờ là hồi tháng trước. Tôi nghĩ chắc chỉ là sự tình cờ. Tôi không muốn đánh thức nó, thành ra tôi chừa cái chỗ nằm của nó lại, khỏi phủi bụi. Sau đó thì tôi thấy rành rành con mèo này ưa ngủ trên bàn thờ. Nó cuộn mình bên dưới bình hoa, hai chân che mặt, hai mắt lim dim, hơi thở nghe rõ mồn một. Tôi thấy kỳ lạ là giống mèo thở to thế khi chúng ngủ. Thật quá vô duyên so với sự đỏm dáng thường ngày. Có lẽ vì liếm lông nên chúng mệt, chúng mới thở to như vậy?
Hôm nay là ngày cuối năm âm lịch. Mẹ làm một mâm cỗ lớn để cúng ông bà. Nhưng mâm cỗ mẹ làm vẫn không tinh xảo bằng bà nội. Tôi nhớ có đến mấy chục món ăn. Bảy món bún miến. Thịt luộc, thịt rôti, thịt kho rục. Gà nấu cháo, gà xé phây, gà ráng. Rồi bao nhiêu là thứ bánh tự làm: bánh in, bánh thuẩn, bánh cốm, bánh ít, bánh chưng. Cùng với bánh là mứt: mứt gừng, mứt dừa, mứt bí đao, mức dẻo. Và sắp các món làm sao vừa vặn lên bàn là cả một nghệ thuật. Rồi cả nhà thắp nhang và cúng vái ông bà. Hồi nhỏ tôi lạy không được thật cho lắm. Tôi cứ tự hỏi, “Có thật không? Có thật ông bà mình đang sống trên trời không?”
Hồi đó sự sống mới tràn trề làm sao. Cá chật sông, cua đầy đồng. Tôi câu tuy dở nhưng cũng dính được vài em cá chốt háu ăn. Rồi người ta xịt thuốc trừ sâu, diệt trừ luôn những thứ khác. Tiếp đến là ô nhiễm. Tôi tự hỏi, “Con người có nhất thiết phải ăn nhiều như vậy không?” Bà cố tôi nói con vật thật ra cũng là người, chẳng qua là chúng không may đó thôi. Kiếp sau chúng sẽ làm người trở lại. Và cũng có những người thật ra là các vị thần xấu số. Chà chà. Tôi hỏi mẹ thích làm nữ thần nào. Mẹ làm ngơ. Mẹ nói tôi biết nhiều quá.
Bố đang bận vẽ chân dung cho ông cố. Bố của bố, tức ông nội tôi, mất khi bố mới tròn năm tuổi. Bố chỉ nhớ mang máng. Thật ra cũng có một vài ký ức rõ rệt, chỉ có điều chúng không vui. Ông nội hay đánh bố. Ông cũng đánh cả vợ nữa. Bố nói ông ước gì bố mình chết đi. Có ngờ đâu thành sự thật. Tôi hỏi bố, “Chắc là do bố nguyền rủa?” Bố cũng như mẹ, nói tôi biết nhiều quá, không có lợi ích gì đâu.
Tôi leo cầu thang lên lầu quét dọn. Nguyên buổi sáng hôm nay tôi sẽ phải bận bịu với những cây đèn đồng. Mỗi năm một lần, tôi lại phải đánh cho teng đồng bong ra, rồi nó mới sáng trưng trở lại. Tôi phải dùng một thứ dung dịch đặc biệt mua dưới phố. Bôi dung dịch lên cây đèn làm cho teng đồng chảy ra thành một thứ xin xỉn xanh xanh, mà trước sau gì cũng lấm lem hết lên cả áo quần. Dĩ nhiên bạn cũng có thể đem xuống phố thuê người ta đánh bóng, nhưng tự làm ở nhà vẫn hay hơn. Họ dùng một cái bàn chải máy, chà tới đâu sáng choang tới đó nhưng mà hao đồng lắm. Cứ chà kiểu đó chừng vài năm là chẳng còn gì. Bố nói bộ đèn đồng này xưa tới bốn thế hệ rồi đó. Tôi cố hình dung bố rồi ông nội rồi ông cố cũng ngồi chà xát hai cây đèn y như tôi lúc này, nhiều cái Tết về trước.
Con mèo dĩ nhiên đang nằm dưới bình hoa. Mẹ đã thay vào những bông huệ vàng óng ả. Con mèo nó ngao như đòi vuốt ve. Tôi có một câu hỏi to đùng liên quan tới con mèo, tôi biết chỉ có bố mới trả lời được thôi. Nhưng tôi không biết phải làm sao bố mới chịu nói. Tôi phải đợi một dịp may. Có lẽ là tối nay chăng, khi ông đã hào sảng sau vài lon bia. Lúc này đây, tôi sẽ hài lòng với việc lau chùi cây đèn, trong khi con mèo bận bịu lau chính nó.
Có một chuyện đời xưa khác của bà cố cũng ám ảnh tôi, là mối tình éo le giữa anh nông dân và một cô tiên nữ. Ngày xửa ngày xưa có anh nông dân lấy một cô tiên nữ, dung nhan rạng ngời. Làm sao mà lấy được nhỉ? Nói cho ngắn gọi là cô ấy buộc phải lấy. Ngày nọ cô đang tắm dưới hồ cùng với bầy chị em thì có anh nông dân tình cờ đi ngang qua. Anh ta bị mê hoặc bởi nhan sắc tuyệt trần của họ. Mà trời xui đất khiến hay sao ấy, anh ta còn nhìn thấy nơi cất giấu xiêm y của các cô, đó là những đôi cánh. Anh lẻn tới nơi đó và lấy cắp một đôi. Tắm táp xong xuôi, các cô tiên mặc cánh vào bay về trời. Nhưng có một cô cứ đứng đó loay hoay mãi. Cô không còn cách nào hơn là đi theo anh nông dân về nhà.
Họ sống dù sao cũng hạnh phúc bên nhau và sinh hạ hai cậu con trai, xinh xắn lắm. Nhưng một hôm xúc lúa khỏi cái bồ to ở giữa nhà đi nấu cơm trưa, cô tiên phát hiện ra cái tưởng như đã mất: đôi cánh của cô. Tức giận cộng với nỗi nhớ nhà, cô bèn mặc cánh bay về trời. Anh nông dân và hai cậu con trai nhớ cô tiên quá, họ bèn đến gặp một đạo sĩ, nhờ ông ta giúp đỡ. Vị đạo sĩ dùng phép thuật đưa ba người lên trời, cho gia đình được đoàn tụ. Mà họ đoàn tụ vui vẻ lắm. Nhưng Ngọc Hoàng hay tin thì lại không vui, ngài cho như thế là phạm vào thiên giới. Ngài nói những “phàm phu” phải trở về mặt đất, còn tiên nữ ở lại trời. Bốn người buồn quá nhưng đâu còn cách nào khác. Cô tiên cột sợi thừng vô một cái trống to và bảo ba cha con ngồi lên đó. Cô sẽ thả họ xuống đất như là thả một chiếc gàu xuống giếng vậy. Cô dặn họ khi nào tới nơi thì đánh ba tiếng trống, cho cô biết mà cắt dây.
Nhưng trời xui đất khiến hay sao ấy, khi họ đang ở lưng chừng giữa trời và đất, thì hai cậu con trai đói quá bèn lấy cơm nguội ra ăn, làm rơi vãi trên mặt trống. Một đàn quạ ở đâu bay ngang, cũng sà vô ăn ké. Chúng mổ lên mặt trống, kêu tùng tùng tùng. Nghĩ rằng chồng con đã về đến nơi, cô tiên bèn cắt đứt dây. Ba cha con rớt xuống chết. Sau đó khi biết được lỡ lầm của mình, cô tiên buồn quá cũng chết theo. Câu chuyện làm Ngọc Hoàng đau xót và ăn năn, ngài cũng phần nào có lỗi với họ. Ngài bèn hạ lệnh cho gia đình họ, mà sau khi chết đã biến thành những ngôi sao tách lìa, được đoàn tụ mỗi năm một lần, vào ngày rằm tháng bảy. Và như một hình phạt cho thói ăn cướp, bầy quạ đen phải xây một cây cầu bắc qua con sông Ngân cho họ gặp nhau. Sau này lớn lên tôi biết câu chuyện này có nhiều dị bản và phổ biến khắp các nước Á Đông. Tên của hai ngôi sao đó là Ngưu Lang và Chức Nữ.
Bố đã vẽ xong chân dung của ông cố. Lúc này bố đang lồng vào khung. Cây đèn đồng trong tay tôi đang sáng dần lên, từng chút từng chút một. Dưới bếp, mẹ đang bận bịu chỉ bảo người làm. Trên bàn thờ, con mèo đã thay đổi tư thế nằm; lúc này nó nghiêng về bên trái, hai chân duỗi thẳng ra, khoan khoái lắm. Tôi muốn hỏi bố con mèo là ông bà nào của mình vậy, nhưng tôi biết bố sẽ trả lời ra sao. Bố sẽ chỉ đơn giản nói, “Con trai à, đừng cố biết hết mọi chuyện trên đời”.

Thứ Ba, 22 tháng 7, 2014

Bên kia sông - Thạch Lam



Thạch Lam

The other side of the river





My hometown was just another sub-mountainous district of the country, I wouldn't say there was anything special about it. It wasn't too big, yet richly populated. Commerce was always good thanks to the crossing railway and a tributary of the Nhi River providing the waterways. The town actually comprised of only one street, with the railway on one side and a block of houses on the other, thatch-roofed and either wood- or earth-walled, and some stores that villagers opened to sell stuffs. But the two two-storey brick houses were really huge: the trading companies that some Khach or Chinese settlers set up long ago, controlling all the better trades in the district. One or two Khach was always there behind the wooden counter doing their maths over the abacus, while the owner himself, well-fed and rosy and glossy-headed, sat imperiously in his armchair, lighting up his makhorka all the time. Those foreigners and their huge stores were my first 
perceptions of wealthiness since they made me think of a remote place, or even a weird land where they came from. I would stand there for several hours watching them--their movements and behaviours, their sing-song dialects--and wondered how in the world this strangeness came to be.

I was only thirteen at the time. My parents had moved from Hanoi due to their business failure--this district was my father's birthplace after all-- just two years ago. We settled down in a small three-room house in the heart of the street, which faced the railway against some rice paddies. My mother arranged a small shop to sell things to the country people in the surrounding villages who flocked to the district town whenever a Phien market, a marketplace that was scheduled every few days or once a week came about. The market took place in the very heart of the street and it was quite messy with sweeties shops, rice shops and egg-plant shops and all those bamboo sticks and baskets struggling for some sort of order among the two rows of stalls. Against a blue sky the noises of the marketplace, unmistakably peculiar, resounding and consuming, raised themselves from the crowd like a fire and pervaded the whole district; it was a mess of actions and joys and colors, mingled with lights and laughters and even swears as sharp as weapons battling in the air.

That was all about my hometown, a sub-mountainous district called Van Duong, of which a poet from my family lineage had composed these verses:

Van Duong's pretty, then why is she so sad?
They are all after her, things aren't that bad
Her waterfront's full of boats
Her railway station's busy with loads

I spent my boyhood here, jumping and jiving like a bird in the embrace of life, being all eyes for sights, all ears for sounds and a whole nose for smells, of sand and earth and those burnt leaves that the misty winds brought into town from the village end every evening.

The whole marketplace and its alleys and open grounds were as familiar to me as those old furniture at home. But across the river towards the administrative house, about half a mile from the  market itself, was the land of secrets and mysteries. The townsfolk called it Sen terminal, and the small stream that embraced the land Sen river. It was a hamlet of about a dozen of households, half hidden among the lush greens of trees and pierced by a stone-paved road that stretched to nowhere. Beyond it was a forsaken field with lots of graves and pine-apple clusters; there was a small levee and a line of trees on one side, while on the other a rock pillar graced the winding path into a village known for its divine banyan tree, which proved its hundreds of years of age in its huge hanging roots, as wide as several arm's lengths and so confusing nobody could tell which of them was the original trunk. Not far from there, an unattended grave boasted several stone statues covered by pale moss and thick grass, while the two pine trees aside rose into the sky to make themselves one of the landmarks of the region.

A wooden bridge that was on the verge of collapsing, prompting the government's abandoning crossed the river and connected Sen terminal to the town market. On the rare occasions that I made my trip there, I would always walk the bridge in terrors; the old termite-fed planks trembled with every step I made, and through the wide gaps I was able to see a darkish river flow. The occasions of a Sen visit were really rare since people on this side of the river wouldn't associate with those yonder. Sen terminal belonged to a different province, called Bac; gangs had often robbed the district town then withdrew there to hide from prosecution, which made the place seem to me even more exotic. The townsfolk would talk in low voices about what had just happened there; whenever a Sen being came over, all the eyes would be fixed upon him as if he were from the moon.

One day a silver-bearded man visited my family; he had some rice wine with my father and then they exchanged their poems. When I learned that he was from Sen I could not help but stare at him in admiration, while my mother added up to it, saying he was a well-versed scholar from a village on the other riverside, which held very high reputation since it once produced as many as eighteen doctors in the national literary competitions. When he left for home I saw him to the very bridge, then I stopped and watched him spread his umbrella and disappeared into the horizon.

The Sen land kept haunting my teenage mind. I would climb a mound in the backyard and look over to the other side of the river, viewing the several roofs hidden among the trees, that lonely inn and the line of trees along the levee, and the road that stretched to nowhere, maybe to a faraway place beyond the blurred hills in the horizon. For a boy of delta birth like me, being so used to the flat sceneries of muddy waters, the hillside was an irresistable call. When the sunlights were transparent enough one of the hills would turn crimson-red against the evening sky. One could easily see a cluster of trees on the hilltop, which my mother said was a pagoda called Thien Thai. Thien Thai! That mystic divine name made me think of those wonderful heavens where gods played their games and which my father would speak of when he told me his tales. I would then linger till the sun went down to see the whole place blaze up in the dying twilights, then it was dusk and there were only colors left in the clouds, and the range of houses would blur into the earth while the two pine trees would rise and silhouette against a pale sky.

###

In the end I managed to pay Sen quite a few visits. It was thanks to a schoolmate of mine named Tien. I was nearing the end of my third year when Tien joined my class. I immediately loved him; Tien was a slim good-looking child with big eyes and fair skin and silky hair. I loved Tien like I would a girl; he was kind-hearted and so very gentle and generous to his friends. But those good traits would pale in comparison to the fact that he came from across the river; I was attracted to him for that reason. It made him no ordinary boy to me. I got on really friendly terms with him, seeing him to the bridge every afternoon when we finished our classes.

One Sunday Tien invited me home. I was overjoyed as if we were about to start an adventure; it would actually be the first time I crossed the river. Tien walked me over the bridge; we stopped midway to lean against the walls and looked down onto the stream; traders' boats were jam-packed along the bank, with children playing inside and a dog curling on the roof top. They came from Bac province, carrying many rare goods. Tien pointed to the boats and said to me, "When we moved here from Bac, we were going on one of these boats".

I glanced at Tien and was about to ask him about that remote Bac town but I stopped it. Tien held my hand and took me off the bridge to the Sen street. His house was towards the end of it and adjacent to the baren field. I saw a miscellaneous store like my mother's, only smaller. On the elevated plank beyond the counters sat a silver-haired woman counting her bank notes, loking really kind-hearted. When she saw us coming in she put on a bright expression and said, "Where have you been boy?"

Tien was wiping off the sweats with his sleeve when he replied, "Grandmother, I've just been back from the market place".

She noticed me hiding behind Tien's back so she said, "You must want some drink now. And you, boy, please come in. It's a hot sun out there, aren't you tired from the trip? 

The old woman's voice was gentle and sweet which pleased me and cheered me up. 

Tien took me into a scarcely furnitured living room with all the old and cheap facilities. We had hardly sat down when in walked a girl of about fifteen years of age. I knew it was Tien's elder sister since she looked exactly like him, with the same fair skin and huge eyes. At the sight of her brother a smile blossomed on her rosy lips, it was the most charming I had ever seen.

"So you've been back home, brother?" she said.

Her voice was as gentle as the old woman's, only more refined. Thuy came to our side and tended her brother. I was awed at her beauty, my stomach churning; even at that age I knew I was being treated with something rare and precious and so fragile it may vanish in no time.

When Thuy placed her hand on my shoulder I felt a shudder in my body as if I was already loving her. 

"So you're Tien's classmate?" she said.

"Yes, sure" I replied.

Thuy touched my hair gently and said, "You're such a good boy". Then she went on, "Won't you stay and play with him and have some cakes too. Tien, I saved your cakes on the table over there".

Thuy wouldn't have the cakes but she sat and watched us eat; I could tell how she loved her brother and I was jealous wirh Tien for owning such a gorgeous and caring sister. But she asked me questions too and I gave her my merriest answers, which were empty in nature except for the eagerness to hear her gentle and refined voice talk back.

When we finished our cakes Tien took me to the grave-yard in the back of the house. Here I was finally in the land of secrets, with the two pine trees and hidden stone statues in my reach. In the wind the pine trees sounded like an exotic song from a different world, and that inn beside the rock pillar in the middle of the windy field looked like it was expecting guests from another time to stop by. 

From then on I would visit Sen very often. I wanted to be close to the florae of the land which seemed to be of a different soul than my side of the river. I wanted to see Thuy all the time and hear her voice and watch her pretty mouth part itself against her coal-black teeth. I even found the old woman interesting. I didn't know Tien's family really well but I could see that permanent nostalgia on their faces which made them even more lovely.

I believed they had prior to this settlement lived a rich and adventurous life, which one could tell from such antiques as the curved sword, the bronze instrument and the jade tortoise, all kept in an old cupboard the paint coat of which had broken. And how they differed from the happy simple folks on my side; Thuy and Tien both had pale skin, slim limbs, delicate manners and soft voices unlike those rosy, sturdy beings opposite my house. I thought it was because of the mysterious land they lived on, or maybe because they were unusual already so they sought such a place. 

I became really close to Tien; I was actually made another member of the family. Thuy treated me like she did her brother, with care and love. Many a time she let me lie on her lap and rubbed my hair and asked me considerate questions. After all the years I still remember the moments I looked up at her deep eyes and tiny mouth, while she tried to sooth my forhead which was heated from playing in the sunny field. I still bear in mind the figure of a lovely and fragile girl who rose from my childhood like a  blessed fairy against an exotic scenery.

Before long, however, I had to part with my little friend; my parents moved back to Hanoi and I had to join them. The last time I was at Sen with Tien, it was chilly and colorless. We paid our last visit to the stone statues who still sat still in the grass. It was about time to say maybe our last goodbye but we were too young to feel the sadness. Then Thuy patted me on the shoulder and gently said, "If ever I could see you again..."

Suddenly I was really moved. My eyes were full of tears and I cried on Thuy's shoulder.

###

There's an end to every tale. I wouldn't be able to come back to Van Duong until ten years later. The scenery had changed into 
a busier market street with blocks of new tile-roofed houses. The shop owners were now aged, their hair and beard going white and in their place were now my very old classmates, who looked like total strangers to me. 

I came over to the other side of the river; the metal bridge had collapsed on a stormy night and had never been repaired since the route to Bac was scarcely traversed. A ferry was now in use. I crossed the river at sunset when the mist was going down in a tangle with the cooking smoke from dock boats.  I was about to only see the destructive work of time: the other riverside was but a baren forsaken land with grass thriving on the old floors. A collapsing inn was to be seen beside the banyan roots. A whole street had vanished and there were only battered trees here and there. But the tree range along the levee was still present along the winding path that led to nowhere, with darkness overwhelming and nobody to be seen till the horizon. 

I didn't dare to venture further; saddened, I came back to the boat, crossing the gloomy misty river. I didn't ask the ferry man about the whereabouts of the previous settlers, I thought he didn't know either. At the sight of the moss-covered black-bricked bridge base, I thought of my little friend, of Thuy and her lovely feminine ways, of the melancholy that was ever present on her face, which I now knew was to mask some painful twist of fate. Her eyes had been the purifying horizon that revealed to me the after-taste of life.

Whem I was ashore I would turn my head for a last glimpse of the tree range, the inn, a village in the shadows of the remote mountains; the other side of the river held no more secrets, all I felt was the sadness of a poor land.